Vỡ tử cung là gì? Các công bố khoa học về Vỡ tử cung
Vỡ tử cung là tình trạng mà một phần hay toàn bộ của tử cung bị nứt hoặc vỡ. Đây là một vấn đề nghiêm trọng và nguy hiểm, có thể gây ra nhiều biến chứng và rủi ...
Vỡ tử cung là tình trạng mà một phần hay toàn bộ của tử cung bị nứt hoặc vỡ. Đây là một vấn đề nghiêm trọng và nguy hiểm, có thể gây ra nhiều biến chứng và rủi ro đến tính mạng của phụ nữ. Vỡ tử cung có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm sự căng thẳng quá mức trong tử cung do thai nghén, điều trị hiếm muộn, tử cung bán thần hoặc tai nạn máy móc. Triệu chứng của vỡ tử cung có thể bao gồm đau bụng cấp tính, ra máu âm đỏ hoặc ra máu nhiều và nhanh chóng, sốc nội mạc. Khi nghi ngờ vỡ tử cung, cần đi khám và điều trị ngay lập tức.
Vỡ tử cung có thể xảy ra trong nhiều tình huống và có thể ảnh hưởng đến các lớp mô của tử cung, gồm niêm mạc tử cung, cơ tử cung và màng ngoài tử cung. Dựa vào mức độ vụn vỡ của tử cung, vỡ tử cung được chia thành ba loại:
1. Vỡ tử cung không mở rộng (non-communicating uterine rupture): Đây là loại vỡ tử cung ít gặp nhất. Vỡ tử cung không mở rộng xảy ra khi chỉ một phần của tử cung bị nứt hoặc vỡ. Trong trường hợp này, vẫn có lớp màng ngoài tử cung giữ cho các cơ quan bên trong không thoát ra ngoài. Tùy thuộc vào mức độ và vị trí vỡ, triệu chứng có thể là đau bụng cấp tính, hiếm khi có xuất hiện ra máu âm đỏ hoặc ra máu nhiều và nhanh chóng. Điều trị thường bao gồm phẫu thuật để sửa chữa tử cung và kiểm tra các tổn thương khác.
2. Vỡ tử cung mở rộng (communicating uterine rupture): Đây là loại vỡ tử cung phổ biến nhất và nguy hiểm nhất. Vỡ tử cung mở rộng xảy ra khi tử cung mở rộng và toàn bộ hoặc một phần tử cung bị nứt hoặc vỡ. Khi tử cung mở rộng để đưa ra một thai nghén hoặc khi hiếm muộn, sức ép lên các vách tử cung có thể vượt quá khả năng chịu đựng của chúng và dẫn đến vỡ tử cung. Triệu chứng của vỡ tử cung mở rộng thường là đau bụng cấp tính, ra máu âm đỏ hoặc ra máu nhiều và nhanh chóng, sốc nội mạc, tình trạng huyết áp thấp. Đây là tình trạng khẩn cấp yêu cầu phẫu thuật ngay lập tức để khắc phục tổn thương và không có giải pháp nào khác ngoài việc lấy bỏ tử cung.
3. Vỡ tử cung sau sinh (postpartum uterine rupture): Đây là loại vỡ tử cung xảy ra sau khi sinh. Rupture tử cung sau sinh thường xảy ra ở những người đã có quá trình đẻ lần trước và có một lớp vết mổ trước đó trên tử cung. Triệu chứng thuộc loại này có thể bao gồm đau bụng cấp tính, ra máu nhiều và nhanh chóng, tình trạng sốc. Điều trị bao gồm phẫu thuật và có thể bao gồm việc loại bỏ tử cung tùy thuộc vào mức độ tổn thương.
Việc chẩn đoán vỡ tử cung thường dựa trên lịch sử bệnh của bệnh nhân, triệu chứng và kết quả các xét nghiệm hình ảnh như siêu âm, CT scan hay MRI. Điều trị tùy thuộc vào mức độ vụn vỡ và tình trạng của bệnh nhân, bao gồm phẫu thuật để sửa chữa tử cung, điều trị các biến chứng và hỗ trợ sống.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vỡ tử cung":
Nghiên cứu trước đây của chúng tôi đã chứng minh sự gia tăng biểu hiện của protein sốc nhiệt (Hsp) 90 trong da của bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống (SSc). Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá nồng độ Hsp90 trong huyết tương ở bệnh nhân SSc và xác định mối liên quan của nó với các đặc điểm liên quan đến SSc. Có 92 bệnh nhân SSc và 92 người đối chứng khỏe mạnh được sắp xếp theo độ tuổi và giới tính được tuyển chọn cho phân tích cắt ngang. Phân tích dọc bao gồm 30 bệnh nhân bị SSc kèm bệnh phổi kẽ (ILD) được điều trị thường xuyên với cyclophosphamide. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh. Hsp90 tương quan dương tính với protein C phản ứng và tương quan âm tính với các xét nghiệm chức năng phổi như dung tích sống gắng sức và khả năng khuếch tán cho cacbon monoxide (DLCO). Ở bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống da lan rộng (dcSSc), Hsp90 tương quan dương tính với thang điểm da Rodnan được sửa đổi. Ở bệnh nhân SSc-ILD được điều trị bằng cyclophosphamide, không thấy sự khác biệt về Hsp90 giữa lúc bắt đầu và sau 1, 6, hoặc 12 tháng điều trị. Tuy nhiên, Hsp90 ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng nồng độ Hsp90 trong huyết tương gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh cùng độ tuổi và giới tính. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc có liên quan với hoạt động viêm gia tăng, chức năng phổi kém hơn và trong dcSSc, với mức độ tổn thương da. Hsp90 trong huyết tương ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng ở bệnh nhân SSc-ILD điều trị bằng cyclophosphamide.
Mô tả đặc điểm và quản lý của các cá nhân đến bệnh viện vì tự hại và đánh giá sự thay đổi trong quản lý và chất lượng dịch vụ kể từ nghiên cứu trước đó vào năm 2001, thời kỳ mà hướng dẫn quốc gia đã có sẵn.
Nghiên cứu quan sát.
Một mẫu ngẫu nhiên phân tầng từ 32 bệnh viện tại Anh, Vương quốc Liên bang.
6442 cá nhân xuất hiện với 7689 trường hợp tự hại trong khoảng thời gian kiểm tra 3 tháng từ 2010 đến 2011.
Các trường hợp tự hại, các khía cạnh chính của quản lý cá nhân liên quan đến đánh giá tâm lý xã hội và theo dõi, và một thước đo 21 mục về chất lượng dịch vụ.
Tổng cộng, 56% (3583/6442) số cá nhân là nữ và 51% (3274/6442) có độ tuổi dưới 35 tuổi. Các bệnh viện có sự khác biệt rõ rệt trong quản lý. Tỷ lệ các trường hợp nhận được đánh giá tâm lý xã hội bởi chuyên gia sức khỏe tâm thần dao động từ 22% đến 88% (trung vị 58%, IQR 48–70%); tỷ lệ các trường hợp dẫn đến nhập viện chung dao động từ 22% đến 85% (trung vị 54%, IQR 41–63%); việc giới thiệu theo dõi sức khỏe tâm thần chuyên biệt được thực hiện trong 11–64% các trường hợp (trung vị 28%, IQR 22–38%); và tỷ lệ giới thiệu đến các dịch vụ phi pháp lý được thực hiện trong 4–62% các trường hợp (trung vị 15%, IQR 8–23%); 0–21% trường hợp dẫn đến nhập viện tâm thần (trung vị 7%, QR 4–12%). Tỷ lệ đánh giá chuyên biệt thay đổi theo phương pháp tự hại; tỷ lệ trung vị đối với tự cắt là 45% (IQR 28–63%) so với 58% (IQR 48–73%) đối với tự đầu độc. So với nghiên cứu năm 2001, có rất ít sự khác biệt trong tỷ lệ trường hợp nhận được đánh giá chuyên biệt; có sự gia tăng đáng kể trong việc nhập viện chung nhưng giảm trong giới thiệu theo dõi sức khỏe tâm thần chuyên biệt. Tuy nhiên, điểm số trên thang đo chất lượng dịch vụ đã tăng từ trung vị 11.5–14.5 (tăng 26%).
Dịch vụ quản lý bệnh viện đối với tự hại vẫn còn biến đổi bất chấp các hướng dẫn và sáng kiến chính sách quốc gia. Chúng tôi không tìm thấy bằng chứng về mức độ đánh giá ngày càng tăng theo thời gian nhưng các dấu hiệu của chất lượng dịch vụ có thể đã được cải thiện.
Tài liệu này là một phần của nghiên cứu 'Biến đổi trong cung cấp dịch vụ tự hại: một nghiên cứu quan sát khảo sát kết quả và xu hướng thời gian'. Số đăng ký cơ sở dữ liệu Danh mục Nghiên cứu Lâm sàng Viện Nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia (NIHR CRN): HOMASH 2 (7333). Số đăng ký Hệ thống Điều phối NIHR để đạt được sự cho phép của NHS (CSP): 23226.
Các xét nghiệm đo tổng các protein glycosyl hóa trong huyết thanh (fructosamine) và albumin glycosyl hóa cụ thể hơn có thể là những chỉ số hữu ích cho tình trạng tăng đường huyết ở bệnh nhân thẩm phân, hoặc là sự thay thế hoặc bổ sung cho các chỉ số tiêu chuẩn như hemoglobin A1c, vì chúng không bị ảnh hưởng bởi quá trình tái tạo hồng cầu. Tuy nhiên, mối quan hệ của chúng với các kết quả lâu dài ở bệnh nhân thẩm phân chưa được mô tả rõ ràng.
Chúng tôi đã đo fructosamine và albumin glycosyl hóa trong các mẫu ban đầu từ 503 người tham gia thẩm phân máu mới vào một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu quốc gia, được tuyển chọn từ năm 1995–1998 và theo dõi trung bình là 3,5 năm. Các kết quả bao gồm tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh do mọi nguyên nhân và bệnh tim mạch (CVD) (sự kiện CVD đầu tiên và nhập viện do nhiễm trùng huyết đầu tiên) được phân tích bằng hồi quy Cox, điều chỉnh theo đặc điểm nhân khẩu học và lâm sàng, cũng như các bệnh đi kèm.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10